Tỉnh Cao Bằng
Chủ tịch HĐND
Hà Ngọc Chiến
Chủ tịch UBND
Nguyễn Hoàng Anh
Diện tích
6.724.600 km2 (2007)
Dân số
523.000 người (2007)
Mật độ
78 người/km2 (2007)
Dân tộc
Kinh, Tày, Nùng, H'mông, Dao
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam. Hai mặt Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Cao Bằng nằm trong toạ độ từ 23007'12" - 22021'21" B và từ 105016'15" - 106050'25" Đ. Với vị trí này, Cao Bằng có một vị trí chiến lược với việc phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Là tỉnh miền núi vùng cao biên giới, xa các trung tâm kinh tế lớn của vùng Đông Bắc và cả nước nhưng Cao Bằng lại có ba cửa khẩu là Tà Lùng, Hùng Quốc và Sóc Hà. Đây là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh giao lưu kinh tế với bên ngoài, nhất là Trung Quốc.
Tuy nhiên, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) lại là một tỉnh nghèo, dân số đông, có thế mạnh về thị trường tiêu thụ nhưng cũng là sự canh tranh gay gắt trong các mối quan hệ mua bán, chất lượng hàng hoá, giá thành. Trong nước, Cao Bằng cũng có thể giao lưu với một số tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn ... nhưng do địa hình núi non, giao thông kém nên mức độ phát triển chỉ trong một chừng mực nhất định. Hơn nữa, việc giao lưu chỉ chủ yếu bằng đường bộ nên cũng ảnh hưởng nhiều đến việc phát triển kinh tế, xã hội của Cao Bằng.
Địa hình
Địa hình Cao Bằng chia cắt mạnh và phức tạp bởi nhiều dãy núi xen kẽ là sông suối, thung lũng hẹp. Nhìn chung, địa hình cao dần về phía Tây và Tây Bắc, thấp dần về phía Đông và Đông Nam.
Phía Tây và Tây Bắc sừng sững các khối núi cao trên dưới 1000m, các núi ở đây phần nhiều là núi đá vôi. Phía Đông và Đông Nam địa hình thấp dần. Phía Đông là vùng Ba Châu chỉ cao từ 800m trở xuống. Núi đá vôi tương đối phổ biến, có nhiều hang động và sông ngầm. Phần trung tâm tỉnh là thung lũng sông Bằng Giang, kéo dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam, dài khoảng 100m.
Địa hình về mặt sinh thái có thể chia thành 4 tiểu vùng: tiểu vùng núi đá vôi ở phía Bắc và Đông Bắc chiếm 32%, tiểu vùng núi đất ở phía Tây và Tây Nam chiếm 18%, tiểu vùng núi đất thuộc thượng nguồn sông Hiến chiếm 38%, tiểu vùng bồn địa thị xã Cao Bằng và huyện Hoà An dọc sông Bằng chiếm 12% diện tích tự nhiên của tỉnh.
Nhìn chung, địa hình núi cao, độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh đã ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế – xã hội của Cao Bằng. Đất canh tác hạn chế là một trong những khó khăn đối với một tỉnh nghèo, chủ yếu trông cậy vào sản xuất nông nghiệp. Việc giao lưu với các tỉnh lân cận nói chung và các trung tâm đô thị lớn của cả nước nói riêng, cũng như trong phạm vi nội tỉnh gặp nhiều khó khăn, cản trở. Tuy nhiên, ở mỗi vùng cũng có những thế mạnh, nếu có thể phát huy thì sẽ tạo được thế mạnh chung của toàn tỉnh.
Khí hậu
Khí hậu Cao Bằng mang tính nhiệt đới gió mùa lục địa núi cao và có đặc trưng riêng so với các tỉnh miền núi khác thuộc vùng Đông Bắc. Cao Bằng có tiểu vùng khí hậu á nhiệt đới.
Án ngữ phía Bắc của vùng Đông Bắc, lại có địa hình núi cao nên nền nhiệt của Cao Bằng giảm đi nhiều so với các tỉnh khác. Tổng xạ năm chỉ còn 90,2 kcal/cm2 với cán cân bức xạ 78 kcal/cm2. Điều đó làm cho tổng nhiệt trung bình năm giảm hẳn, nhiều nơi chỉ còn đạt tiêu chuẩn á nhiệt đới.
Về chế độ nhiệt, có thể chia ra hai mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Phần lớn lãnh thổ có ba tháng nhiệt độ trung bình dưới 150C. Ở đây thông thường có 1-2 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 100C. Ở các vùng cao của tỉnh thường xuất hiện sương muối, băng giá. Sương mù kéo dài tới 4-5 tháng. Khi lạnh nhất, nhiệt độ có thể xuống dưới 00C và thường xuyên xảy ra vào tháng giêng.
Về chế độ mưa, lượng mưa trung bình năm của toàn tỉnh là 1500 - 1800mm, tập trung vào 4 tháng. Đặc điểm này đã tạo cho Cao Bằng những lợi thế để hình thành các vùng sản xuất cây, con phong phú đa dạng, trong đó có những cây đặc sản như dẻ hạt, hồng không hạt, đậu tương có hàm lượng đạm cao, thuốc lá, chè đắng… mà nhiều nơi khác không có điều kiện phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên
- Đất
Tài nguyên đất của Cao Bằng nhìn chung đa dạng, phức tạp. Cao Bằng có một số loại đất chính như sau:
-
Đất mùn đỏ vàng trên núi phân bố ở khu vực Phja Oắc, Phja Đa, thượng nguồn sông Hiến. Đất có hàm lượng mùn khá, có phản ứng hơi chua và tần mùn dày. Trên các núi Phja Oắc và Phja Đa còn rải rác đất mùn alit xen với đất feralit.
-
Tại các vùng núi đá vôi phát triển loại đất màu nâu đỏ, hàm lượng NPK không nhiều.
-
Đất feralit phát triển trên các đá trầm tích là loại đất phổ biến hơn cả, phân bố ở vùng đồi núi. Đất này bao gồm đất feralit đỏ vàng trên đá sét và đất biến chất, nghèo dinh dưỡng, có phản ứng chua. Đất feralit vàng đỏ phát triển trên các đá mácma axít nghèo đạm và lân.
-
Ở bồn địa Cao Bằng có đất phù sa, đất sialit – feralit (nhiều hơn cả) và đất feralit. Đất phù sa chỉ gặp ở dọc theo các thung lũng sông, suối.
Với phương thức nông lâm kết hợp, căn cứ độ dốc và tầng đất mặt đối với diện tích đất trống đồi núi trọc có thể trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản và chăn nuôi gia súc kết hợp với trồng rừng theo mô hình trang trại. Các loại đất chuyên dùng, đất xây dựng khu công nghiệp, đất xây dựng đô thị và đất xây dựng khác còn nhiều. Tỉnh cần có kế hoạch quản lý, sử dụng các loại đất trên cho hiệu quả, tạo thêm nguồn lực quan trọng để phát triển.
- Rừng
Rừng tự nhiên chỉ còn ở những nơi cao, có địa hình phức tạp thuộc vùng núi Phja Oắc, Phji Đa hay trên các vùng đá vôi. Ở đây có một số kiểu rừng: rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh với quần hợp dẻ, sau xen lẫn một số loài rụng lá, rừng nhiệt đới hơi ẩm rụng lá, rừng nhiệt đới ẩm xanh quanh năm.
Lên các đai cao thường gặp kiểu rừng ôn đới trên núi với đỗ quyên là loài chiếm ưu thế. Trên núi đá vôi xuất hiện loại hình rừng lá kim như rừng vân xam vùng Hạ Lang. Những nơi rừng tự nhiên bị tàn phá mạnh thì phát triển rừng thứ sinh gồm cây gỗ hỗn tạp, trảng cây bụi và trảng cỏ các loại.
Trong rừng có một số loài gỗ quý như thông tre, đỗ quyên, kim giao, pơmu, dẻ lá tre và nhiều dược liệu như đẳng sâm, sa nhân, ngũ gia bì, hà thủ ô…
Ngoài rừng tự nhiên Cao Bằng còn đẩy mạnh việc trồng rừng để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Trong điều kiện rừng tự nhiên bị tàn phá, động vật rừng cũng giảm sút nhiều. Tuy nhiên, động vật ở đây vẫn còn gặp một số loài có giá trị như báo, hươu, cầy hương…
- Khoáng sản
Cao Bằng là tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại và đa dạng về loại hình do có lịch sử phát triển địa chất phức tạp.
Các loại khoáng sản có trữ lượng tương đối lớn, chất lượng khá là quặng sắt trữ lượng khoảng 100 triệu tấn, bôxít 200 triệu tấn, mangan 7 triệu tấn. Đặc biệt, Cao Bằng nổi tiếng từ lâu là mỏ thiếc Tĩnh Túc với trữ lượng khoảng 20 triệu tấn.
Ngoài ra, Cao Bằng còn có nhiều khoáng sản khác như đồng, niken, kẽm, chì, antimoan, vàng … nhưng trữ lượng nhỏ, ít có giá trị về mặt kinh tế.
Đá vôi có trữ lượng rất lớn ở Cao Bằng, phân bố tập trung nhất ở khu vực phía Bắc và Đông Bắc. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất xi măng và phục vụ cho công nghiệp vật liệu xây dựng.
Du lịch
Cao Bằng là tỉnh biên giới phía Bắc có nhiều tiềm năng du lịch có hàng loạt địa danh nổi tiếng cả nước.
Về thắng cảnh, đó là hồ Thăng Hen, thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao… Cao Bằng có hơn 20 di tích đã được nhà nước xếp hạng, trong đó có đến 16 di tích lịch sử cách mạng. Tiêu biểu nhất là cụm di tích Pác Bó, suối Lênin, núi Các Mác, lán Khuổi Nậm.
Về di tích văn hoá lịch sử có thành Nà Lữ, thành nhà Mạc, đền Kỳ Sầm, đền vua Lê. Cao Bằng còn rộn rã với nhiều lễ hội. Đó là hội mời Mẹ Trăng của người Tày, hội Chùa, hội Thanh Minh…
Cao Bằng cũng là vùng đất có nhiều làng nghề nổi tiếng như làng rèn Phúc Sen (huyện Quảng Hoà ) hơn 1000 năm tuổi, thường thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan.
Tuy tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch nhưng số khách đến tham quan còn ít do giao thông còn nhiều bất tiện, các điểm du lịch không liên kết chặt chẽ và chất lượng dịch vụ chưa cao. Để tạo nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách, Cao Bằng đã xác định 4 cụm du lịch chính là Cụm thị xã Cao Bằng và phụ cận với việc hướng vào tôn tạo, bảo vệ các di tích, cảnh quan dọc bờ sông Bằng; Cụm Pắc Bó với những cụm di tích liên quan đến Căn cứ cách mạng cũ; Cụm Bản Giốc - Ngườm Ngao với cảnh quan thiên nhiên đẹp, hùng vĩ, thích hợp với du lịch sinh thái; Cụm rừng Trần Hưng Đạo gắn với du lịch sinh thái văn hoá. Trong tương lai, có thể ngành du lịch Cao Bằng sẽ phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh.
Đặc sản
-
Bánh Khẩu Sli
-
Bánh Trứng Kiến
-
Chè Dây
-
Hạt Dẻ
-
Chè Đắng
Lịch sử hình thành và phát triển
Cao Bằng là địa danh đã xuất hiện từ lâu đời ở nước Việt Nam. Vào thời các vua Hùng, vùng đất này thuộc bộ Vũ Định. Đến đời Lý, thuộc vào đất Thái Nguyên. Vào đầu triều Lê, Cao Bằng thuộc Bắc đạo, rồi đặt vào Ninh Sóc thừa tuyên, sau đổi thành Cao Bình phủ.
Đến thời nhà Mạc thất thế chạy lên Cao Bằng, đóng đô ở Cao Bình với 3 đời vua, tổng cộng 70 năm. Việc nhà Mạc đưa nhiều người lên cư trú tổ chức cai trị, mở các khoa thi đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống xã hội của mảnh đất biên cương này. Khi nhà Lê dẹp xong nhà Mạc mới đặt tên vùng này là Cao Bằng và không để thuộc vào Thái Nguyên nữa.
Đến thời Nguyễn, Cao Bằng được đặt làm Hiệp trấn, sau đổi thành phủ Trùng Khánh. Đến năm 1831 đặt thành tỉnh Cao Bằng, bỏ chế độ thổ mục.
Sau này ranh giới của tỉnh Cao Bằng ít nhiều có sự thay đổi. Ngày 22/12/1975 Cao Bằng hợp nhất với Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng. Đến ngày 29/12/1978, tỉnh Cao Bằng được tái lập.
Hành chính và các đơn vị trực thuộc
Tỉnh lị là thị xã Cao Bằng
Các đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm thị xã Cao Bằng và 12 huyện khác là Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hà Quảng, Hạ Lang, Hoà An, Nguyên Bình, Phục Hoà, Quảng Uyên, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh.
Kinh tế
Nền kinh tế Cao Bằng đi lên với điểm xuất phát thấp, nhiều mặt còn mất cân đối nghiêm trọng và đứng trước những thách thức to lớn. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, trong khi đó diện tích đất canh tác có hạn, phần lớn trồng cây lương thực, sản xuất mang tính chất độc canh. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng trong những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh bước đầu đã có khởi sắc và đạt được một số kết quả nhất định.
Cao Bằng có nhiều cửa khẩu thông thương với Trung Quốc tạo thuận lợi giao lưu, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá. Bên cạnh đó nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cũng là tiền đề để phát triển ngành công nghiệp của tỉnh. Đất nông – lâm nghiệp còn tiềm năng chưa được khai thác, đất vườn tạp còn nhiều, khả năng thâm canh tăng vụ còn lớn. Đó là các cơ sở và cũng là điều kiện cho phép phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả. Với những đặc điểm địa hình, đất đai, nguồn nước và khí hậu đã tạo cho Cao Bằng có điều kiện phát triển một nền nông lâm nghiệp đa dạng, phong phú với nhiều loại cây, con sinh trưởng và phát triển tốt cho sản phẩm có giá trị hàng hoá cao, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng.
Văn hoá
Là một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, Cao Bằng có nền văn hoá truyền thống rất phong phú. Người Tày chiếm số lượng khá lớn trong tỉnh, sống hầu hết ở các huyện. Họ có truyền thống văn hoá lâu đời, có chữ viết riêng, có điều kiện kinh tế khá hơn các dân tộc khác. Nét đặc sắc về văn hoá của người Tày được thể hiện trong các hội làng, ca hát đối đáp, hát ví, hát then. Về nhạc cụ, đàn tính là loại đàn dân tộc đặc trưng của người Tày. Dân tộc Nùng sống đan xen với dân tộc Tày nên về mặt văn hoá chịu nhiều ảnh hưởng của dân tộc Tày. Dân tộc Dao sống chủ yếu ở vùng núi thấp, văn hoá còn ít nhiều hạn chế, đặc biệt còn lưu lại nhiều tập tục lạc hậu. Dân tộc H’Mông sống trên các vùng núi cao hẻo lánh, có ngôn ngữ thuộc nhóm Mông – Dao. Họ thường sử dụng các loại nhạc cụ như khèn và đàn môi để gọi bạn tình và ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống quê hương.
Cao Bằng hàng năm có nhiều lễ hội truyền thống của các dân tộc sinh sống trong vùng như hội mời Mẹ Trăng, hội Lồng Tồng, hội chùa, hội Thanh minh…
Mỗi dân tộc, từng vùng có loại hình dân ca riêng. Người Tày có làn điệu Lượn, Hát then, Lượn Slương, Lượn cọi, Lượn ngạn. Người Nùng có Lượn phủ, Lượn tại, Lượn Hèo phơn Nùng an, Sli giang, Nàng ới. Người Dao có Páo dung.
Giao thông
Mạng lưới giao thông vận tải của Cao Bằng nhìn chung kém phát triển. Loại hình vận tải duy nhất là đường bộ, tổng chiều dài không nhiều, mật độ đường thấp và chất lượng xấu.
Tuyến giao thông quan trọng nhất chạy theo hướng Bắc – Nam là quốc lộ 3, gần như chia Cao Bằng thành hai phần phía Đông và phía Tây. Quốc lộ 4A chạy song song với đường ranh giới giữa Cao Bằng với Lạng Sơn. Đây cũng là tuyến đường giao thông quan trọng nhưng chất lượng đường còn hạn chế, đi qua các vùng núi cao, nhiều dốc đèo. Đoạn chạy trên lãnh thổ Cao Bằng dài 54km.
Các tuyến đường nội tỉnh gồm trên dưới 10 tuyến, trong đó có các tuyến đường quan trọng là đường 203, 204, 206, 207 và 208.
Đến nay, hệ thống giao thông phát triển tốt đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hoá, hành khách nội tỉnh. Đặc biệt, tại các cửa khẩu ở các huyện giáp tuyến biên giới, hệ thống giao thông phát triển tạo thành một vành đai nhằm đảm bảo cho an ninh quốc phòng và giao lưu quốc tế.