<
Trang chủ » Tri Thức Việt
Từ khóa Toàn văn
Nguyễn Bá Huân

Tiểu sử
 

Nguyễn Bá Huân là danh sĩ triều Tự Đức, tự Ôn Thanh, hiệu Mộ Chân sơn nhân, sau lấy tên hiệu nữa là Ái Cúc ẩn sĩ. Ông sinh năm Quý Sửu (1853), con Tú tài Nguyễn Khuê một vị thầy đồ đức độ, tiết tháo, đào tạo nhiều thế hệ học trò làm nên danh phận và cũng là người có biệt tài làm thơ quốc âm, quê làng Vân Sơn, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định).

Nguyễn Bá Huân vốn thông minh và cả nhà ông đều là người hay chữ. Ngoài ngưới cha, cả ba người em ông là Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Thúc Mân, Nguyễn Quý Luân cũng đều có tài văn chương. Vì thế, ông dễ dàng chắt lọc, trao đổi, lĩnh hội được cái tinh túy của đạo lý thánh hiền. Một thời ông cùng với em là Nguyễn Trọng Trì là những nhà văn có tiếng, nhiều cảm tình với nhà Tây Sơn.

Ông cùng với Phạm Trường Phát - một danh sĩ Bình Định khác ở huyện Phù Cát - được dân trong vùng gọi là "Bình Định song cuồng". Vì thế ai cũng kỳ vọng rằng ông sẽ thong dong trên con đường công danh, khoa cử. Thế nhưng sự thể ngược lại. Các sĩ tử đi thi thì lều chõng cồng kềnh, còn ông đi thi rất chi gọn nhẹ, chỉ mang theo một bầu rượu đầy. Hễ làm được câu thơ hay thì tự thưởng mình một chén rượu. Thưởng mãi thành say nên ông không làm được bài thi.

Sau mấy lần đến trường thi chỉ để “ngông”, ông không còn nghĩ đến chuyện thi cử nữa, mà làm nghề dạy học và chăm chú viết văn.

Pháp xâm lược Việt Nam. Cuối tháng 5-1885, kinh thành Huế bị thất thủ, vua Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết chạy ra phía Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương.

Đào Doãn Địch vốn người Bình Định đang làm quan tại Kinh, mang chiếu về quê tụ nghĩa. Sau trận Cần Úc, Đào công lâm bệnh nặng rồi mất, trao binh quyền cho Mai Xuân Thưởng. Cả ba anh em ông cùng lúc lên đường đến Bình Khê ứng nghĩa. Nguyễn Bá Huân được phong làm Tham tán sự vụ, trấn thủ mật khu Linh Đỗng.

Năm 1887, Mai Xuân Thưởng cùng một số võ tướng bại trận, bị bắt rồi bị giết. Nguyễn Bá Huân ở hậu cứ nên may mắn trốn thoát.

Năm Ất Mùi (1895), vua Thành Thái (成泰; 1879 – 1954) có chiếu chỉ bãi bỏ việc truy nã, truy tố các chiến sĩ Cần Vương đào tỵ, ông mới cùng hai anh em trở về làng cũ Vân Sơn.

Về nhà thì em ông là Nguyễn Thúc Mân vừa mất, sau đó đến cha ông qua đời. Trước mất mát liên tiếp của gia đình, ông quyết định: Cứu nước không xong thì phải ra sức cứu người. Vì vậy, ông chọn lấy nghề bốc thuốc đông y làm phương tiện.

Năm 1904, Đào Tấn về hưu tại Vinh Thạnh, Tuy Phước, mang theo các nghệ sĩ từng cộng tác với ông, lập nên "Học bộ đình Vinh Thạnh". Đây không chỉ là lò đào tạo các thế hệ nghệ sĩ hát bội Bình Định, mà còn là nơi hội tụ các văn nhân, tài tử trong vùng đi lại.

Nguyễn Bá Huân cùng Nguyễn Trọng Trì, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo... là những người thường đến nơi đấy để đàm đạo về thế sự, nhân tình, phẩm bình nghệ thuật.

Năm Ất Mão (1915),sau khi làm lễ tế danh tướng nhà Tây Sơn Trần Quang Diệu, Nguyễn Bá Huân chết uất giữa gò, năm đó ông 63 tuổi.

Tác phẩm
 

  • Cân quắc anh hùng truyện (ca ngợi nữ tướng Bùi Thị Xuân và các nữ tướng)

  • Tây Sơn văn thần liệt truyện

  • Tây Sơn tiềm long lục

  • Bình Định hào kiệt truyện

Sách của ông thường hay kể chuyện 20 quan văn thời Tây Sơn một lòng giúp anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lập nhiều công trạng cho dân, cho nước. Ngoài ra, ông còn có một số bài thơ, câu đối viết về nhà Tây Sơn... như:

Tây Sơn lương tướng ngoại đề từ:

Nho giả không đàm lễ nhạc thâm,

Tây Sơn khí vận thuộc thuần dương.

Bất nhân gian nịnh ô thanh sử,

Na đắc hùng tư khởi lục lâm.

Báo quốc nhất thân đô thị đảm.

Giao tình thiên tải chỉ luân (luận) tâm.

Vô đoan hữu tục anh hùng phổ.

Túy mạc lâm li bất tự câm (cấm).

Dịch:

Lời đề tập ngoại truyện về các tướng giỏi của nhà Tây Sơn:

Nho sĩ bàn sâu lễ nhạc thôi.

Tây Sơn khí thuận lẽ đương rồi.

Sử xanh, gian nịnh làm hoen bẩn,

Rừng biếc, anh hùng nổi khắp nơi.

Nợ nước một thân can đảm đúc,

Giao tình nghìn thuở dạ trao lời.

Không dưng ghi lại anh hùng truyện

Mực đượm men say thảo vạn hồi.


©2023 Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt