Di chỉ khảo cổ học tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Qua hai lần phát hiện vào các năm 1961 và 1976, hiện vật là hai chiếc trống đồng.
Chiếc trống thứ nhất đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Trống có dáng thấp bé. Cao 48cm. Đường kính mặt là 72cm. Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh, có 14 vành hoa văn. Vành 1, 5, 10, 14 là chấm dải; vành 2, 4 có vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; 3 hình chữ S gãy khúc; vành 7, 12 có vòng tròn đồng tâm; vành 11, 13 có răng cưa; vành 6, 9 là động vật. Thân trống có tang gần mặt, gồm sáu băng hoa văn hình học, băng một, năm có chấm giải, băng hai, bốn có răng cưa; băng ba có vòng tròn đồng tâm; băng sáu là hình sáu chiếc thuyền. Lưng trống có sáu băng hoa văn. Chân trống không trang trí gì. Trống này thuộc nhóm A kiểu A2.
Chiếc trống thứ hai lưu giữ tại Sở Văn Hoá - Thông Tin Hà Tây cũ, nay thuộc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội. Trống cao 56cm; đường kính mặt là 64cm. Chính giữa mặt là ngôi sao nổi 12 cánh xen hình lông công đơn giản, gồm 13 vành hoa văn; vành 1, 2, 10, 11 là những vòng tròn khép đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến. vành ba không rõ. vành bốn, sáu vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành năm được trang trí ¼ vành bằng hoa văn hình những cặp lõm nhau. Vành ba, bốn còn lại là hoa văn trám lồng. Vành bảy, mười bốn có hình chim mỏ đuôi dài, xòe cánh bay ngược chiều kim đồng hồ, mỏ con sau kề đuôi con trước. Vành tám, mười ba là những chấm giải. Vành chín, mười hai là văn răng cưa đối nhau, đỉnh quay về hai phía. Rìa mặt trống không trang trí. Thân trống trên tang có năm băng hoa văn hình học, băng vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến nằm giữa hai băng hoa văn răng cưa và chấm giải đối xứng. Phía dưới là băng sáu có sáu chiếc thuyền dáng cong hình vòng cung, mũi thuyền có hình đầu chim, hoa văn thuyền thể hiện hai kiểu: những chấm nhỏ kèm vạch xuyên chéo hoặc vạch ngắn xiên chéo nằm ngang. Thuyền một, ba, bốn có bốn người đội mũ lông chim cao, đóng khố, cuối thuyền có một người cầm dầm chèo lái thuyền theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Mũi thuyền có ba người cầm dầm ngắn đang chèo. Thuyền hai mờ, không rõ số người. Thuyền năm có năm người: người cầm lái đống khố đứng lái hơi ngả về sau, ba người cầm dầm bơi, riêng người thứ năm đóng khố, cầm rìu xéo hướng về trước (giống ở trong Miếu Môn I). Xen giữa các thuyền là hình chim gồm các loại: có loại mỏ và chân dài, có mào và mỏ cụp, có chân và mỏ ngắn vểnh lên … Dưới thuyền là băng bảy hoa văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến giữa hai đường chỉ trên đối xứng từng đôi một. Lưng trống có sáu băng hoa. Ô một có cột hoa văn hình học xếp thẳng tạo tám ô chữ nhật. Ô hai không có trang trí. Các ô khác đều có người múa đội mũ lông chim cao, váy có hai vạt tỏa hai bên cầm rìu, tay cầm mộc. Băng năm hoa văn hình học giống trên tang. Quai có hai đôi kép văn thừng, chân không trang trí. Trống thuộc nhóm A kiểu A3.