<
Trang chủ » Tri Thức Việt
Từ khóa Toàn văn
Bát Cảnh Sơn

Đền Tiên Ông - Ảnh: hanamhome.net

Tọa lạc tại xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng của tỉnh Hà Nam, Bát cảnh sơn từ xưa đến nay luôn là điểm đến hấp dẫn đối với du khách.

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” phần “Dư địa chí” có chép lại đại khái rằng vào thế kỷ 16, chúa Trịnh Doanh khi đến Bát cảnh sơn đã ví cảnh đẹp nơi đây với danh thắng Tiêu Tương của Trung Quốc. Đồng thời ông cho sai người dựng hành cung ở đây để khi đi về có dịp lại ghé qua đây để nghỉ ngơi thưởng cảnh. Cũng theo các tài liệu còn để lại, cái tên Bát cảnh sơn được giải thích theo hai cách: cách thứ nhất xuất phát từ địa thế của vùng này mà đặt tên, có nghĩa là dãy núi tám cánh; cách thứ hai nghe có vẻ hợp lý hơn đó là xưa ở dãy này có 8 ngôi chùa rất đẹp được bài trí theo thuật bát quái ngũ hành nên mới đặt tên núi là Bát cảnh sơn, có nghĩa là núi có 8 cảnh đẹp. Tám công trình này bao gồm đền Tiên Ông, chùa Ông, chùa Tam Giáo, Chùa Kiêu, chùa Bà, chùa Dâu, chùa Cả, chùa Bông, chùa Vân Mộng; trong số các ngôi chùa thì chỉ còn sót lại chùa Kiêu, Vân Mộng, Tam Giáo, các công trình còn lại đều đã đổ nát thành phế tích, một số mất hẳn, một số chỉ còn lưu lại chút dấu tích không đáng kể.

Di tích đầu tiên phải nhắc đến là đền Ông, ngôi đền này là công trình thờ thần duy nhất trong cả quần thể kiến trúc tâm linh Bát cảnh sơn. Đền xây vào đời Trần Nhân Tông, nằm sừng sững trên đỉnh núi Tượng Lĩnh ở độ cao 200m. Trước khi đến viếng các di tích còn lại trong quần thể, du khách sẽ đặt bước chân của mình tại ngôi đền này. Đền thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên vương Bồ Tát, dân quen gọi là Tiên Ông. Lai lịch của vị thần này được kể lại trong một truyền thuyết rằng: Triều nhà Trần, thân phụ Tiên Ông vốn quê Từ Sơn, làm quan to trong triều, cưới đến 23 người thê thiếp mà vẫn chẳng có con trai. Một ngày nọ, ông đến kinh lý trấn Sơn Nam thì gặp và cưới người thiếp thứ 24. Người này sinh hạ ra Tiên Ông. Khi còn nhỏ, ông có tướng mạo khác thường, tính tình thuần phác, một lòng hướng Phật. Lớn lên ông đi khắp nơi tầm sư học đạo. Trên đường đi như vậy, một hôm ông đi ngang qua vùng Quang Thừa (tức Tượng Lĩnh ngày nay), trông cảnh sắc nơi đây vừa kỳ vĩ vừa diễm lệ, lại thanh tịnh u tịch, ngài bèn dừng lại đây, vào núi Bát cảnh sơn dựng một ngôi chùa lá ngay dưới chân động Tam Giáo, lập đàn thờ phật, cúng tế gia tiên, gọi là chùa Tam Giáo. Tấm lòng bồ tát của ngài được dân chúng quanh vườn mến phục. Thường ngày, ngài cứu nhân độ thế, vỗ yên một vùng. Ngài tu thân đắc đạo nên trước khi viên tịch, ngài dặn dò dân chúng hãy lấy thân thể ngài mà tạc tượng để thờ, lấy đồng để đúc tượng thờ thần. Quả thực, sau khi viên tịch thân thể ngài biến thành cây gỗ lớn kỳ lạ, dân trong vùng lấy cây ấy tạc thành tượng ngài để thờ ở điện Phật, và đúc tượng đồng để thờ như một vị thần.

Ao nước chùa Tiên Ông - Ảnh: hyttravel.com.vn

Đền hình chữ tam (三): trước gồm 5 gian, giữa 3 gian, và sau 1 gian. Tương truyền, gian trước xưa vốn rất nhỏ, nhưng sau các triều và dân chúng góp công sức tu sửa liên tục mà được to rộng như ngày nay. Gian trước được dựng kiểu chồng diêm 8 mái cong, 4 góc nạm đầu rồng mềm mại, mái lợp ngói nam. Gian giữa xây kiểu hồi văn cánh bảng tam đấu, gian sau cuốn vòm. Trong đền lưu giữ được nhiều thần phả, sắc phong và nhiều đồ thờ tự quý hiếm như hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương bằng đá, bằng đồng do triều đình ban tặng. Đặc biệt nhất ở đây là 2 pho tượng, 1 bằng gỗ, 1 bằng đồng được thờ trong gian sau, nghe nói rất linh thiêng.

Dân quanh vùng còn lưu truyền câu chuyện nói về sự linh thiêng của tượng gỗ và tượng đồng của ngài. Họ kể rằng, dù chiến tranh loạn lạc nhưng chưa bao giờ hai pho tượng này rời khỏi điện thờ. Có lần, Nguyễn Hữu Chỉnh không tin, sai lính đem tượng đồng đi nấu chảy để đúc tiền nhằm bác bỏ những lời đồn mà ông cho là huyễn hoặc. Nhưng lạ thay, không búa rìu nào chặt được pho tượng, lại thấy trên trán tượng rịn mồ hôi, còn bọn lính thì tự chặt vào chân mình. Vừa lạ vừa sợ, Nguyễn Hữu Chỉnh cho lập đàn thỉnh khấn, khấn rằng: nếu Ngài linh thiêng thì hãy cho sông Châu bên mưa, bên tạnh. Lời khấn vừa dứt, giông gió kéo đến, nhưng lạ thay đúng như lời khấn, hai bên sông mà chỉ một bên mưa còn bên bờ kia thì tịnh không thấy một giọt. Biết đã phạm sai lầm, Nguyễn Hữu Chỉnh vội vàng tế lễ khấn vái xin ngài xá miễn, rồi sai lính lập tức chuyển tượng lại đến, dâng hương hoa cúng tế. Từ ngày đền được dựng đến nay, nhiều đời vua đã đến chiêm bái ngài, như các vua Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông, các chúa như Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Trịnh Sâm.

Ngày nay, cứ hằng năm ngày rằm tháng 6 âm lịch, dân làng lại tổ chức lễ tế và hội để viếng cũng như tưởng nhớ công ơn của ngài, lễ hội diễn ra rất trọng thể, được toàn thể dân chúng trong tỉnh cũng như du khách thập phương nô nức tham dự.

Khi đến viếng đền Tiên Ông, bạn sẽ thấy trước sân đền có một hồ nước lớn hình bán nguyệt, nằm ở phía bắc của đỉnh Tượng Lĩnh. Nước trong hồ trong vắt và ăm ắp quanh năm. Tương truyền, xưa kia giữa hồ có một ngôi chùa, dân gian gọi đó là chùa Ông. Đến năm đầu thế kỷ 20, một trận đại hồng thủy đã cuốn trôi tất cả, chỉ còn lại hồ nước. Với diện tích rộng đến hơn ba trăm mẫu, hồ nước này như một tấm gương khổng lồ soi bóng đỉnh Tượng Lĩnh, như một chứng nhân cho bao đổi dời của dòng thời gian.

Vượt qua đền Ông khoảng một cây số men theo vách núi là đến chùa Tam Giáo. Xưa ngôi chùa này có kiến trúc rất đồ sộ với chiều rộng hàng trăm gian, rất nhiều tượng vật lớn được dựng thờ ở đây. Quá trình xây ngôi chùa này, tiên ông đã phải cậy đến sự góp sức của rất nhiều dân chúng và thợ mộc trong vùng. Để nuôi một số lượng lớn người làm việc như vậy, tiên ông đã nhờ vào nồi cơm thần và lọ vừng ăn hoài không hết. Dưới chân núi trước chùa có một dòng suối mát quanh năm róc rách chảy. Dòng suối này cũng gắn với một câu chuyện huyền thoại rằng mỗi ngày nó chảy ra hai bát gạo và hai đồng tiền, đủ cho tiên ông sinh sống mà tu đạo, nhưng rồi một hôm tin đồn ra ngoài có kẻ gian tham biết chuyện đã cho đục miệng hang rộng ra nhằm lấy được nhiều tiền và gạo hơn nữa. Nhưng khi đục xong, miệng hang rộng thật đấy, nhưng tiền và gạo chẳng còn thấy ra nữa.

Chùa Tam Giáo

Dù đã xuống cấp trầm trọng thời gian trước đây, nhưng nay chùa này đã được phục dựng lại với kiến túc hình chữ đinh (丁), gồm 5 gian chính và một gian hậu, 8 mái chồng diêm, lợp ngói âm dương.

Từng một thời là nơi linh thiêng, được các bậc vua chúa, tao nhân mặc khách đến đây thăm viếng, đề thơ vịnh nguyệt, nhưng ngày nay các ngôi chùa này đều chỉ còn được biết đến qua sách vở, trên thực tế chúng đều trở thành phế tích với rất ít hiện vật còn sót lại.

Chùa Kiêu nằm cách chùa Tam Giáo một khoảng hơn trăm thước về phía đỉnh núi, đứng ở đây du khách có thể phóng tầm mắt quan sát khắp vùng phong cảnh ruộng đồng lạc mạc ở mạn Đông Nam của ngọn núi này. Ngày nay, ngôi chùa này đã trở thành phế tích. Vật chứng còn sót lại của nó chỉ là một nền đất cao hơn mặt đất chút đỉnh, lối vào một động rộng chỉ mươi mét vuông và ba tấm bia khắc trên vách núi đá được tiền nhân tạc tạo dọc đường đi lên ngôi chùa này. Trước cửa động có một bia đá hình vuông, trên có khắc bốn chữ: Nhật nguyệt trường quang – 日月長光” (Tạm dịch: Nhật nguyệt sáng mãi). Tấm bia này gắn liền với một truyền thuyết cho rằng, xưa ở đây cứ mỗi độ trăng sáng, có một tiên ông ngồi đánh cờ thưởng cảnh với các quan từ thiên đình hạ giới.

Chùa Vân Mộng lại cách chùa Kiêu một quãng đường xa và cách trở, theo các ghi chép trong thư tịch xưa, muốn đến được đây, khách vãn chùa phải vượt qua năm đỉnh đèo. Người ta cho rằng, thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu tập tại đây. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn chép rằng: một lần vua nhà Lý phát bệnh đau mắt, chẳng thuốc nào hiệu nghiệm. Lúc bấy giờ, trong dân gian mới đồn rằng, Quĩ Cốc tiên sinh ở chùa Vân Mộng rất có bản lĩnh, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, hiểu chuyện người chuyện thần. Vua bèn tìm đến thỉnh trị. Quỉ Cốc phán rằng nhà vua đau mắt là bởi huyệt xoáy rồng ở khúc sông Hồng bị động mà ra, muốn hết bệnh phải có người hiến tế vào huyệt ấy mới được. Vua trở về, vừa lúc có ông bà bán dầu Vũ Phục quyên sinh ở đoạn sông ấy, thật lạ khi hai người ấy gieo mình xuống dòng nước xoáy cũng là lúc mắt vua lành hẳn.

Đúng như cái tên của nó, chùa Vân Mộng được dựng bên sườn núi chênh vênh, suốt ngày mây bay khói lượn, lại được bao bọc bởi một hệ thống hang núi kỳ thú, cây cối xanh tươi một vùng, khiến cho khung cảnh của ngôi chùa này thêm phần kỳ ảo huyền hoặc.

Đây là hai trong số 6 ngôi chùa còn để lại vết tích đến ngày nay, số còn lại đã bị chôn vùi theo dòng thời gian với nhiều biến cố lịch sử của dân tộc.

Về đây, du khách còn được tham quan tìm hiểu về nơi phát tích của truyện trầu cau. Nơi đây có dòng suối Cau trong vắt bắt nguồn từ dãy núi đá vôi ở thượng nguồn, dân hay gọi là suối Tân Lang. Kế đó có chợ Trầu, dân trong vùng quen gọi trại đi thành chợ Giầu. Cảnh quan diễm lệ, huyền hoặc với nhiều tích cũ chuyện xưa sẽ thật sự là điểm đến ý nghĩa và cuốn hút đối với du khách khi đặt chân đến vùng đất được xem là địa linh nhân kiệt của tỉnh Hà Nam này.


©2023 Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt