Buôn Ma Thuột là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Dak Lak có diện tích khoảng 25 km2 với dân số trên 70.000 người, trong đó có 17.000 người là dân tộc thiểu số.
Buôn Ma Thuột nằm trên trục đường 14 và 21, thuận lợi cho việc mở rộng tấn công ra các tỉnh Tây Nguyên, xuống duyên hải miền Trung và vào Nam Bộ.
Buôn Ma Thuột có vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên nhưng lại xa các trung tâm quân sự lớn, hạn chế sự chi viện của quân đội Sài Gòn.
Buôn Ma Thuột và vùng phụ cận có địa thế thuận lợi cho việc tác chiến hợp đồng binh chủng, nhưng binh lực của quân đội Sài Gòn ở đây bố trí sơ hở hơn so với Pleiku và Kon Tum. Do đó, một trận đánh lớn ở Buôn Ma Thuột sẽ làm đảo lộn thế phòng thủ của quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên, uy hiếp đồng bằng ven biển miền Trung, mở ra hướng tiến công quan trọng vào Sài Gòn.
Tại Hội nghị ngày 8/1/1975, Bộ Chính trị đã chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Nam Tây Nguyên.
Cuối năm 1974, quân đội chính quyền Sài Gòn dù đã suy yếu vẫn đẩy mạnh bình định, lấn chiếm, chống phá các lực lượng cách mạng ở miền Nam.
Tháng 10/1974, Bộ Chính trị họp và nhận định: Mỹ đã rút khỏi miền Nam thì khó có khả năng đưa quân trở lại và dù có can thiệp cũng không thể cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 đến 1976 và chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chủ yếu trong năm 1975.
Tháng 9/1974, Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ (lần thứ nhất) cho chiến trường Tây Nguyên: “Trong năm 1975, chiến trường Tây Nguyên là chiến trường chính, trong hoạt động mùa khô của toàn miền Nam. Cụ thể là mở chiến dịch tiến công lớn ở Nam Tây Nguyên, tiêu diệt một số lực lượng địch, giải phóng một số vùng đất đai, tạo điều kiện để mở thông đường chiến lược Hồ Chí Minh vào đến Nam Bộ. Mục tiêu tiến công chủ yếu là quận lỵ Đức Lập (Dak Min)”.
Tháng 11/1974, Bộ Tổng Tư lệnh bổ sung nhiệm vụ (lần thứ hai): “Mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Nam Tây Nguyên là thị xã Gia Nghĩa”.
Từ ngày 18/12/1974 – 8/1/1975, Bộ Chính trị họp (mở rộng) soát xét tình hình miền Nam và sau chiến thắng Phước Long (ngày 6/1/1975), Bộ Chính trị quyết định: “Tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Bộ Chính trị còn dự kiến: “Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Cũng thời gian này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định lấy Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975.
Để tạo bí mật bất ngờ cho trận quyết chiến chiến lược ở Buôn Ma Thuột, từ đầu năm 1975, lực lượng bộ đội chủ lực ở Tây Nguyên đã tiến hành kế hoạch nghi binh thu hút sự chú ý đối phó của quân đội Sài Gòn ở Bắc Tây Nguyên.
Cuối tháng 2/1975, Sư đoàn 968 đánh tiêu diệt chốt Mỹ, bức đồn Tám và một số cứ điểm ở Tây Pleiku, uy hiếp các quận lỵ Thanh An, căn cứ Thanh Bình.
Ngày 4/3/1975, ở phía Đông An Khê, Sư đoàn 3 của Quân khu V cắt đường 19 và tiêu diệt một số vị trí của quân đội Sài Gòn từ An Khê đến Bình Khê.
Tháng 3/1975, quân đội Sài Gòn vẫn chưa phát hiện quân giải phóng sẽ tấn công Buôn Ma Thuột nên đã đưa Trung đoàn 45 ở Dak Lak ra Pleiku đối phó với hoạt động của lực lượng chủ lực ở Bắc Tây Nguyên.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, để bảo đảm chắc thắng trong trận then chốt Buôn Ma Thuột, từ ngày 4/3/1975, quân giải phóng đã tiến công quy mô vừa và nhỏ ở Pleiku và Kon Tum để nghi binh, cắt đường 19, đường 21 nối với đồng bằng khu 5.
Sáng 5/3/1975, Trung đoàn 25 cắt đường 21.
Ngày 8/3/1975, Trung đoàn 48 đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn và căn cứ Cẩm Ga, cắt đứt đường 14 giữa Pleiku và Buôn Ma Thuột, diệt tiểu đoàn bảo an, bắt 120 tù binh, thu 200 súng.
Ngày 9/3/1975, Sư đoàn 10 đánh quận lỵ Đức Lập, căn cứ Núi Lửa, cứ điểm 22 làm cho Buôn Ma Thuột bị cô lập hoàn toàn.
Ngày 10/3/1975, quân giải phóng hiệp đồng binh chủng đánh thẳng vào Buôn Ma Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên. Quân giải phóng chiếm được quận lỵ và các cứ diểm Dak Song, Dak Sak, diệt 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53, 1 tiểu đoàn bảo an, bắt 100 tù binh, thu 14 pháo, 20 xe tăng thiết giáp.
Đúng 2 giờ 3 phút sáng 10/3/1975, từ các hướng, quân giải phóng nổ súng tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Mở đầu, đặc công đánh sân bay thị xã, đánh khu kho Mai Hắc Đế, lực lượng bộ binh đánh sân bay Hòa Bình; cùng thời gian này hỏa tiễn H12, ĐKB và các cụm pháo tập trung bắn vào Sư bộ 23 của quân đội Sài Gòn.
Ở hướng Bắc, lực lượng bộ binh có xe tăng phối hợp đánh vào ngã Sáu và đánh chiếm Tiểu khu Buôn Ma Thuột. Hướng Tây Bắc, quân giải phóng tiêu diệt Sở chỉ huy khu Kho Mai Hắc Đế, đánh chiếm các cứ điểm Chư Êbur, Chư Dluê… phá hệ thống cứ điểm án ngữ vòng ngoài thị xã.
Ở hướng Tây, quân giải phóng đánh chiếm doanh trại tiểu đoàn quân y và áp sát căn cứ Sư bộ 23.
Ở hướng Nam, quân giải phóng đánh vào khu hành chính, khu tiếp vận, Sở Thú y, Ty Ngân khố, khu cư xá Sĩ quan và đánh chiếm quận lỵ Hòa Bình.
Ngày 11/3/1975, bộ binh, xe tăng và trọng pháo của quân giải phóng tập trung đánh vào Sư bộ 23, đến 10 giờ, quân giải phóng đã làm chủ các mục tiêu, chiếm lĩnh Sư bộ 23, bắt tỉnh trưởng Dak Lak và đại tá sư đoàn phó Sư 23 của quân đội Sài Gòn, làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngày 18/3/1975, Ủy ban quân quản thị xã Buôn Ma Thuột do đại tá Y Blốc Êban, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời tỉnh Dak Lak làm Chủ tịch ra mắt trước 300 đại biểu nhân dân tại đình Lạc Giao.
Sau khi giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, Ủy ban quân quản cùng các huyện sử dụng lực lượng địa phương phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kềm, đến ngày 28/3/1975, toàn tỉnh Dak Lak đã hoàn toàn giải phóng, chính quyền thuộc về nhân dân.