Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế của tỉnh đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Trong từng thời kỳ, tỉnh đã đầu tư khai thác những tiềm năng sẵn có để đưa nền kinh tế đi lên. Tổng GDP của tỉnh liên tục tăng qua các năm: năm 1995 là 4.441,8 tỷ đồng, năm 2000 là 7.239,8 tỷ đồng, năm 2003 đạt 10.708,7 tỷ đồng, năm 2005 đạt 10.835 tỷ đồng. Năm 2003, GDP của tỉnh chiếm 11,9% GDP của toàn vùng đồng bằng Sông Cửu Long, đứng đầu toàn vùng và 2,5% GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1995 - 2003 là 17,6%, cao gấp đôi so với mức trung bình cả nước. Cơ cấu kinh tế hiện nay là Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ. Cơ cấu này đang chuyển dịch theo xu hướng tăng dần tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ.
Tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu nằm 2008 ước đạt mức 12,20%, trong đó đóng góp của từng khu vực như sau: Nông - Lâm - Ngư nghiệp tăng 9,99% , đóng góp 4,89% tăng trưởng; Công nghiệp tăng 12,94%, đóng góp 3,63% tăng trưởng; Thương mại - Dịch vụ tăng 16,09%, đóng góp 3,68% tăng trưởng. Năm 2008, GDP của tỉnh đạt 15.185,6 tỷ đồng, tăng 12,6%. Khu vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp tăng 11,1%; khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng 11,4 %; khu vực Dịch vụ tăng 16,8% so với năm 2007. Đóng góp tăng trưởng của Khu vực I là 4,9% Khu vực II là 3,6% khu vực III là 4,1%. Theo thông tin từ website tỉnh, quý I năm 2009, kinh tế Kiên Giang tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng đạt 7,6%, trong đó Nông - Lâm - Ngư nghiệp 0,45%, Công nghiệp - Xây dựng 3,5%, Thương mại - Dịch vụ 3,65%.
GDP và cơ cấu GDP của Kiên Giang gian đoạn 1995 - 2003 (Giá hiện hành)
Năm | Tổng số | Các khu vực kinh tế |
Nông - Lâm - Ngư nghiệp | Công nghiệp | Thương mại - Dịch vụ |
Tỷ đồng | % | Tỷ đồng | % | Tỷ đồng | % | Tỷ đồng | % |
1995 | 4.441,8 | 100,0 | 2.435,8 | 54,9 | 1.048,3 | 23,6 | 995,0 | 21,5 |
2000 | 7.239,8 | 100,0 | 3.505,9 | 51,8 | 1.992,9 | 27,5 | 1.741,0 | 20,7 |
2003 | 10.708,7 | 100,0 | 5.013,3 | 50,1 | 3.010,5 | 28,1 | 2.648,9 | 21,8 |
Nguồn: Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam - Tập 6 - Nguyễn Văn Thông - NXB Giáo Dục - 2006
Về thành phần kinh tế, khu vực kinh tế trong nước chiếm tỷ trọng lớn và ít thay đổi (93,4%). Trong đó, kinh tế nhà nước chiếm khoảng 26%, kinh tế tư nhân chiếm khoảng 67,4%. Riêng, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thấp, chỉ chiếm khoảng 6,6%.
Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống người dân cũng không ngừng được nâng cao. GDP bình quân đầu người của tỉnh không ngừng tăng lên qua các năm, xếp vào loại cao so với cả nước và khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. GDP bình quân năm 2000 đạt 4.750.000 đồng/người/năm, năm 2003 đặt 6.665.000 đồng/người/năm. Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động trong khu vực kinh tế nhà nước năm 2007 trên địa bàn tỉnh đạt 1.536.400 đồng.
|
Ruộng lúa Gò Quao - Ảnh: Hoàng Chí Hùng |
Đây là khu vực kinh tế quan trọng nhất của tỉnh. Tuy có xu hướng giảm dần tỷ trọng qua các năm, nhưng giá trị tuyệt đối không ngừng gia tăng. Trong đó, nông nghiệp chiếm ưu thế, ngư nghiệp xếp thứ hai và không ngừng gia tăng về tỷ trọng, lâm nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng giảm đi.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2007 của tỉnh đạt 5.581,9 tỷ đồng, đứng thứ 3 trong khu vực đồng bằng Sông Cử Long, sau tỉnh An Giang 6.465,4 tỷ và tỉnh Đồng Tháp 5.719,5 tỷ. Trong nội bộ ngành Nông nghiệp, đã có sự chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi, nhưng còn rất chậm. Ngành trồng trọt luôn giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, chiếm 81,1% giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh năm 2003. Các nhóm cây trồng bao gồm: cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm và cây ăn quả, trong đó ưu thế thuộc về các cây lương thực, đặc biệt là cây lúa. Diện tích trồng lúa năm 2007 của tỉnh là 583.000 ha, cao nhất vùng đồng bằng Sông Cửu Long; sản lượng đạt 2.977.400 tấn, xếp thứ 2, sau tỉnh An Giang với 3.099.400 tấn; năng suất bình quân 51,1 tạ/ha, xếp thứ 6 trong khu vực. Ngoài ra, Kiên Giang còn nổi tiếng với thương hiệu tiêu Phú Quốc. Ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển chậm và không ổn định, chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nông nghiệp. Vật nuôi chính là heo, trâu bò và gia cầm.
Diện tích rừng của tỉnh trong những năm qua biến động không ổn định. Năm 2003, tỉnh có khoảng 118.900 ha đất lâm nghiệp, trong đó diện tích rừng là 110.900 ha, độ che phủ toàn tỉnh đạt tỷ lệ 19%. Năm 2007, diện tích rừng còn lại 102.800 ha, trong đó có 49.600 ha rừng tự nhiên và 53.200 ha rừng trồng. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2007 trên địa bàn tỉnh là 89,6 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994), sản lượng gỗ khai thác năm 2007 đạt 58.600 m3. Hiện tỉnh đã có nhiều dự án trồng mới và bảo vệ khai thác rừng, trong đó mỗi năm trồng thêm 25.000 ha và trồng bạch đàn ở huyện Hòn Đất để làm nguyên liệu cho nhà máy giấy. Tỉnh cũng đã có kế hoạch khôi phục rừng tràm U Minh để giữ môi trường sinh thái ở bán đảo Cà Mau, đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ ven biển.
Ngư nghiệp là thế mạnh thứ 2 của tỉnh và là ngành có khả năng tạo ra hàng hoá giá trị cao thông qua công nghiệp chế biến. Với 200 km đường bờ biển và hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, ngư trường khai thác rộng 63.000 km2, ngành Ngư nghiệp Kiên Giang hiện có tiềm năng phát triển rất lớn. Năm 2007, Kiên Giang có 2.031 tàu đánh bắt xa bờ, sản lượng đạt 397.294 tấn - cao nhất vùng đồng bằng Sông Cửu Long, giá trị sản xuất của ngành thuỷ sản đạt 4.507,3 tỷ đồng - đứng thứ hai khu vực, sau tỉnh Cà Mau với 6.498,1 tỷ đồng. Cùng với sự phát triển của ngành đánh bắt, cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá cũng được đầu tư phát triển, tỉnh đã xây dựng nhiều hệ thống cảng cá như: Thổ Chu, Nam Du, An thới, Tắc Cậu, Dương Đông, Ba Hòn....Ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng được chú trọng phát triển, năm 2007, Kiên Giang có khoảng 103.500 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản với sản lượng đạt 82.137 tấn.
|
Nhà máy xi măng Hà Tiên - Ảnh: Hoàng Chí Hùng |
Công nghiệp là ngành giữ vị trí thứ 2 trong cơ cấu kinh kế của Kiên Giang. Trong những năm qua, ngành này có tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao: giai đoạn 1992 - 1995 là 23,3%, giai đoạn 2000 - 2003 là 11,5%. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng dần đều qua các năm, từ 23,6% năm 1995 lên 27,5% năm 2000 và 28,1% năm 2003. Giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá thực tế) năm 2007 đạt 8.479,7 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm 2008, giá trị xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh là 7.492,6 tỷ đồng, đạt 68,12% kế hoạch và tăng 12,04% so với cùng kỳ, ước tính cả năm đạt 10.810 tỷ đồng, tăng 12,05% so với năm 2007. Trong quý I năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm 1994) trên địa bàn tỉnh thực hiện gần 2.400 tỷ đồng, đạt 19,56% kế hoạch cả năm và tăng 9,35% so với cùng kỳ năm trước.
Trong sản xuất công nghiệp, khu vực kinh tế trong nước chiếm đại bộ phận, trên 99%, trong đó khu vực quốc doanh có tỷ trọng lớn hơn khu vực ngoài quốc doanh. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không đáng kể. Về cơ cấu ngành, Kiên Giang có thế mạnh về vật liệu xây dựng, chế biến nông, thuỷ sản. Xi măng Hà Tiên là thương hiệu nổi tiếng hàng đầu trên thị trường xây dựng trong nước.
Hiện nay, Kiên Giang có 2 khu công nghiệp (KCN) tập trung: KCN Kiên Lương - Ba Hòn - Hòn Chông chủ yếu sản xuất vật liệu xây dựng. KCN Rạch Giá - Rạch Sỏi - Tắc Cậu - Bến Nhật chủ yếu chế biến nông sản, thuỷ hải sản. Hai KCN này đã và đang thu hút đầu tư của các đơn vị trong và ngoài tỉnh, kể cả vốn đầu tư nước ngoài để từng bước thúc đẩy nền kinh tế tỉnh nhà phát triển.
Từ nay đến năm 2010, định hướng phát triển công nghiệp của tỉnh là:
- Ngành Công nghiệp chiếm tỷ trọng từ 30 - 35% trong cơ cấu GDP.
- Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt từ 12 - 14% hằng năm.
- Tập trung đẩy nhanh các nhóm ngành có thế mạnh về tài nguyên và lao động như công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông, thuỷ, hải sản.
Dịch vụ là ngành có tỷ trọng thấp nhất trong cơ cấu GDP của tỉnh. Mặc dù những năm gần đây có xu hướng tăng dần tỷ trọng, nhưng tốc độ chậm và chưa ổn định. Năm 2003, ngành này chỉ chiếm 21,8% GDP toàn tỉnh. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2007 của tỉnh đạt 15.398,8 tỷ đồng, đứng thứ 2 ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, sau tỉnh An Giang với 23.871 tỷ đồng. Tỉnh có tiềm năng rất lớn về dịch vụ, đặc biệt là du lịch.
Năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực hiện khoảng 20.295 tỷ đồng, đạt 111,21% kế hoạch và tăng 30.3% so với cùng kỳ, trong đó, kinh tế nhà nước ước đạt 1.191 tỷ đồng tăng 21,7%; kinh tế ngoài quốc doanh ước đạt 19.104 tỷ đồng tăng 30,8%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ướt đạt 491,2 triệu USD, đạt 147,5% kế hoạch và tăng 105,5% so với cùng kỳ, trong đó, xuất khẩu gạo tăng cả về lượng và giá, tính chung hàng nông sản đạt 360,4 triệu USD, tăng 141,2%; thủy sản 120 triệu USD, tăng 39,6%; hàng hoá khác là 10,77 triệu USD, tăng 191,1% so với cùng kỳ. Về khối lượng, gạo xuất khẩu ước khoảng 698.955 tấn, đạt 116,5% kế hoạch, tăng 38,3% so với cùng kỳ. Tôm đông 3.500 tấn, đạt 50% kế hoạch và tăng 40,4% so với cùng kỳ.