Huyện Nông Cống
Địa chỉ hiện nay
Nông Cống - Thanh Hoá
Vị trí
Huyện của tỉnh Thanh Hoá. Đông giáp huyện Quảng Xương và Tĩnh Gia. Tây giáp huyện Như Thanh. Nam giáp huyện Tĩnh Gia. Bắc giáp huyện Triệu Sơn và Đông Sơn.
Thông tin sơ lược
Diện tích: 286,0 km2
Dân số: 180.100 người (2004)
Mật độ dân số: 630 người/km2
Bao gồm hai thị trấn Yên Mỹ và Nông Cống với 31 xã: Tân Phúc, Tân Thọ, Tân Khang, Trung Chính, Trung Thành, Trung Ý, Hoàng Giang, Hoàng Sơn, Tế Nông, Tế Tân, Tế Lợi, Tế Thắng, Minh Khôi, Minh Nghĩa, Minh Thọ, Vạn Thắng, Vạn Hoà, Vạn Thiện, Thăng Long, Thăng Thọ, Thăng Bình, Công Liêm, Công Chính, Công Bình, Tượng Văn, Tượng Lĩnh, Tượng Sơn, Trường Sơn, Trường Giang, Trường Trung, Trường Minh.
Lịch sử
Huyện Nông Cống xưa có tên là huyện Tư Nông. Tư Nông hay Nông Cống đều có chung một nghĩa là huyện có đặc trưng trồng lúa nước, sản lượng nhiều, đóng góp cao.
Thời Tuỳ - Ðường, Nông Cống là miền đất thuộc huyện Cửu Chân, tương đương với phần đất huyện Ðông Sơn, Triệu Sơn, Nông Cống ngày nay. Sang thời Trần - Hồ, sách Ðại Việt sử ký toàn thư chép: "Lê Duy người xã Cổ Ðịnh huyện Nông Cống". Như thế, tên gọi Nông Cống đã được xác định từ thời Trần.
Thanh Hoá thời Trần gọi là trấn Thanh Ðô có 7 huyện và 3 châu. Trong đó, châu Cửu Chân có 4 huyện là Cổ Chiến, Duyên Giác, Kết Thuế và Nông Cống. Thời Lê - Nguyễn, tên gọi vẫn không thay đổi, với miền đất bao gồm cả huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Như Thanh, Như Xuân và một phần huyện Thường Xuân ngày nay. Năm Minh Mệnh thứ 18, tách tổng Như Lăng thuộc huyện Nông Cống nhập cùng 3 tổng của huyện Thọ Xuân và huyện Lôi Dương để lập châu Thường Xuân. Năm Thành Thái thứ 5 lại tách 2 tổng Xuân Du và Lãng Lăng của huyện Nông Cống để lập ra châu Như Xuân (nay là huyện Như Xuân và Như Thanh).
Tháng 2 năm 1965, cắt 20 xã của huyện Nông Cống và 13 xã của huyện Thọ Xuân để lập huyện Triệu Sơn, cắt 7 xã của huyện Tĩnh Gia lập với 24 xã còn lại để lập ra huyện Nông Cống ngày nay.