<
Trang chủ » Tri Thức Việt
Từ khóa Toàn văn
Thành phố Tuy Hoà

Vị trí

Thành phố Tuy Hòa, tỉnh lỵ của tỉnh Phú Yên, nằm ở phía Đông tỉnh. Bắc giáp huyện Tuy An. Nam giáp huyện Đông Hòa. Tây giáp huyện Phú Hòa. Đông giáp biển với chiều dài bờ biển trên 10 km. Thành phố là nơi tập trung các cơ quan đầu não của Tỉnh và rất nhiều các cơ sở công nghiệp, thương mại và dịch vụ, là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt và nơi tập trung dân cư đông nhất tỉnh Phú Yên.

Thông tin sơ lược

Diện tích: 10.682ha

Dân số: 162.278 người

Bao gồm 10 phường là: phường 1-9, phường Phú Lâm và 4 xã là Bình Ngọc, Bình Kiến, Hoà Kiến và An Phú.

Lịch sử

Cũng giống như các đơn vị hành chính khác của tỉnh, TP Tuy Hòa từ thời xa xưa cũng trải qua nhiều lần chia tách. Từ thời chúa Nguyễn, hầu hết phần đất Tuy Hòa thuộc huyện Đồng Xuân, chỉ có thôn Phường Câu thuộc huyện Tuy Hòa. Từ năm 1832, tổng Hoà Bình (nằm ở phía Bắc sông Đà Rằng, tức là phần đất của  thành phố Tuy Hòa hiện nay) là 1 trong 4 tổng của huyện Tuy Hoà. Năm 1889 huyện Tuy Hòa được nâng lên thành phủ Tuy Hòa gồm 5 tổng, trong đó có tổng Hòa Bình. Từ 1946-1954, thị xã Tuy Hoà là Tỉnh lỵ của tỉnh Phú Yên sau đó thị xã nằm trong quận Tuy Hòa. Năm 1977, thị xã Tuy Hòa được nhập vào huyện Tuy Hòa, nhưng chỉ 1 năm sau lại tách ra thành một đơn vị hành chánh độc lập. Từ năm 1989, thị xã Tuy Hoà lại trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Phú Yên. Đến ngày 05/01/2005, thực hiện Nghị định số 03/2005/NĐ-CP của Chính phủ, thị xã Tuy Hòa chính thức được nâng lên thành thành phố, đồng thời được sáp nhập thêm toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Phú Lâm, huyện Tuy Hoà cũ cùng với 2.187 ha diện tích tự nhiên và 7.734 nhân khẩu của xã An Phú, huyện Tuy An.

Điều kiện tự nhiên

Với vị thế là một nơi gần biển và tiếp giáp với đồng bằng, khí hậu  thành phố Tuy Hòa có nét chung là nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhưng vừa có nét riêng là khí hậu trung bình thấp hơn các nơi. Mỗi năm chia làm hai mùa, mùa nắng bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 9 và mùa mưa bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Mùa nắng chịu ảnh hưởng gió tây nam, còn gọi là gió Lào, mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ biển thổi vào.

Thành phố Tuy Hòa từ xưa đã được người dân đặt cho một cái tên khá lãng mạn, là thành phố của núi Nhạn sông Đà. Mỗi khi nhắc đến cụm từ “Núi Nhạn sông Đà” là người dân Phú Yên liên tưởng ngay đến thành phố Tuy Hòa. Nói như vậy có nghĩa là núi Nhạn sông Đà có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn hóa của cư dân nơi đây. Điều đó không phải ngẫu nhiên vì sông Ba chảy ngang qua thành phố, đến đây được phân thành hai nhánh là sông Chùa và sông Đà Rằng với cửa biển Đà Diễn. Và ngay trên bờ Bắc sông Ba là núi Nhạn như một nét son điểm tô cho thành phố.

Địa hình thành phố tương đối bằng phẳng, một số núi thấp tập trung ở xã Hòa kiến, còn ở vùng châu thổ đồng bằng có núi Nhạn và núi Chóp Chài nằm ngay trung tâm, cùng với sông Ba lững lờ chảy ra biển Đông tạo cho thành phố có một nét đẹp riêng không phải nơi nào cũng có. Trên núi Nhạn có tháp Nhạn - một công trình kiến trúc cổ của người Chăm được xây dựng vào thế kỷ XII. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của thời gian, đến nay, sau đôi lần trùng tu ngôi tháp hầu như vẫn còn giữ được nguyên vẹn cấu trúc và nét cổ kính xưa kia, là một điểm tham quan du lịch và hoạt động văn hóa rất độc đáo của Tuy Hòa, trong đó có Đêm thơ Nguyên tiêu núi Nhạn. Đây là một sinh hoạt văn hóa độc đáo của Phú Yên nổi tiếng trong cả nước do giới văn nghệ sĩ Phú Yên tổ chức hàng năm vào đúng Rằm tháng Giêng âm lịch thu hút hàng ngàn người yêu thơ không chỉ trong tỉnh mà cả ngoài tỉnh. 

Núi Chóp Chài nằm ở phía Bắc thành phố sát ngay nội thành, giống như một cọc tiêu thiên nhiên báo cho những người con Tuy Hòa sớm nhận ra quê hương ngay từ xa. Căn cứ vào hình dáng và thế núi thì Chóp Chài trông như một chiếc chài đang đang vãi trên mặt nước, nhưng khi nhìn theo hướng nam-bắc thì trông như một con rùa đang thò cổ bò trên ruộng.

Cùng với những nét độc đáo về núi và sông, Tuy Hòa còn có bờ biển dài gần 10 km, có các bãi biển đẹp là Tuy Hòa và Mỹ Á (Long Thủy), trong đó bãi biển Mỹ Á với các đảo như hòn Chùa, hòn Cù Lao Mái Nhà rất nổi tiếng về cảnh quan thiên nhiên và đặc sản ẩm thực.

Đặc sản

Đến thành phố Tuy Hoà, đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức món dông xứ Nẫu, ở phường Phú Lâm. Con dông, dáng từa tựa con rắn mối. Những người chuyên nghề bắt dông ở địa phương cho biết: để bắt được dông, thường có hai phương pháp là đào hang và bẫy. Nếu dùng cách thứ nhất thì người đào dông đến những khu vực nhận định có nhiều dông sinh sống, thường là những bãi cát ven biển có cỏ mọc. Khi quan sát thấy có những miệng hang rộng chừng cổ tay, xung quanh hang có dấu đuôi dông bò trên cát, thì đó là hang dông. Muốn bắt được dông họ phải dùng cuốc, xẻng đào đến tận cùng hang để bắt dông. Thường hang dông rất sâu, vì vậy đã có người cắm đầu đào theo hang dông, không để ý nên cát sụp đè chết. Để đề phòng tình huống xấu đó, những người đào hang bắt dông thường đi hai người, nếu xảy ra trường hợp cát sụp đè thì người này nắm chân người kia kéo ra khỏi hang! Cách thứ hai, người đi bắt dông có thể dùng bẫy. Cách bẫy cũng đơn giản, khi đã phát hiện được miệng hang dông thì cắm cần câu bên miệng hang. Cầu câu có một sợi cước hoặc sợi chỉ dù được thắt vòng tròn đặt xung quanh miệng hang, giữa vòng tròn có một cái chốt; các chú chàng dông khi ra khỏi hang đi kiếm ăn hay uống những giọt sương đọng trên lá cỏ thì đụng vào chốt làm cho vòng dây thắt "dính chấu" ngang hông. Nhờ vậy, con dông tuy dính bẫy nhưng không chết, mà vùng vẫy một hồi rồi nằm yên ở đó chờ người săn dông đến bắt bỏ vào bao tải hoặc nhốt vào thùng thiếc...

Món chả dông

Để có được món chả dông, trước hết cần phải có thịt dông. Khi làm thịt dông phải chú ý giữ vệ sinh kỹ lưỡng vì sau khi làm xong không được rửa bằng nước lã để khỏi tanh. Có được thịt dông, muốn chế biến món chả dông phải dùng dao bằm nhuyễn hay dùng cối xay thịt rồi giã nhuyễn cùng với các loại gia vị như: ớt, hành, tiêu, tỏi, mỡ heo hay dầu ăn. Sau đó trộn thịt dông cùng gia vị với một ít nấm mèo và bách thảo đã cắt nhỏ, dùng bánh tráng mỏng cuốn hỗn hợp này thành những cuốn bằng ngón tay rồi bỏ vào chảo dầu chiên dòn. Chả dông Phú Lâm thường ăn kèm với rau sống Ngọc Lãng hoặc rau sống trồng ở các vùng đất Phú Lễ. Đây là những địa phương trồng rau sạch và ngon có tiếng ở xứ Nẫu. Trong mùa dông, nếu ai đã từng thưởng thức món chả dông ở phường Phú Lâm chắc là sẽ nhớ hoài không quên. Bởi lẽ món ăn này không chỉ thơm ngon vì chất đạm nhiều, mùi vị đặc trưng của thịt dông nổi tiếng mà nó còn dẻo quánh, cay xè, ngon ngọt, thơm lừng nhưng giá một đĩa chả dông vài chục cái cũng rất hữu nghị, chỉ vài chục ngàn đồng là tạm dằn bụng 3 đến 4 người ăn. Món này được bày bán ở những quán nhậu bình dân hai bên đường từ ngã ba Đông Tác đến sân bay Tuy Hòa, lan cả sang nhiều con đường ở trung tâm thành phố Tuy Hòa nhưng nhiều nhất là khu Nguyễn Công Trứ.

Món cháo dông

Sau món chả, những người sành ăn còn muốn húp chén cháo dông nóng hổi vào cuối cuộc nhâm nhi. Thịt dông sau khi giã nhuyễn để làm chả thì dành lại một ít để nấu cháo, thường một nồi cháo cho bốn người ăn thì sử dụng một lạng thịt dông là vừa. Muốn nồi cháo ngon thì xào qua thịt dông bằng dầu ăn. Gạo dùng nấu cháo phải là gạo thơm Tuy Hòa, ngâm sơ qua nước lã đến khi nồi nước thịt dông sôi ùng ục thì đổ gạo vào một lúc rồi nêm thêm muối mắm, mì chính, hành, tiêu... thế là có nồi cháo dông đặc biệt bồi dưỡng cơ thể sau những giờ lao động chân tay, trí óc mệt nhọc hoặc sau những “trận” chén chú, chén anh rượu vào lời ra, bụng đói meo...

Món thịt dông nướng

Sử dụng thịt dông và gia vị như cách làm chả hay nấu cháo. Có điều khác là món này phải dùng lá mãng cầu cuốn thịt dông thành từng miếng bằng ngón tay cái rồi nướng bằng lò than hồng nổ lách tách. Món thịt dông nướng mùi của nó lôi cuốn những bợm nhậu cách xa từ hàng cây số, chỉ nghe mùi dông nướng cũng đủ làm mấy cốc. Món này mà uống với rượu gạo làng Quy Hậu (xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, Phú Yên) thì chẳng nỡ dứt, trừ khi bà xã cằn nhằn bỏ công ăn việc làm, quên đón con và... quên đường về!

 


©2023 Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt