Phan Bội Châu - nhà yêu nước, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tên tuổi, con người, tác phẩm và những hoạt động của Phan Bội Châu đã cổ vũ rất lớn tinh thần đấu tranh yêu nước của quần chúng nhân dân.
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước, năm 1925 Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) và bị thực dân Pháp lén lút đưa về Hà Nội. Trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi ân xá cho Cụ, thực dân Pháp phải đưa Cụ về giam lỏng tại Huế 15 năm (1925-1940).
Thành phố Huế - nơi Phan Bội Châu đặt những bước chân đầu tiên trên con đường vận động cứu nước và cũng là nơi nhà chí sĩ đã sống qua những năm tháng cuối đời. Các di tích lưu niệm Phan Bội Châu ngày nay vẫn được bảo tồn và phát huy giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa và là một di sản vô cùng quý giá.
Quần thể di tích lưu niệm bao gồm: ngôi nhà tranh (số 53 đường Phan Bội Châu, dốc Bến Ngự, phường Trường An, thành phố Huế), nhà thờ, lăng mộ và nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu ở đồi Quảng Tế (xã Thủy Xuân, thành phố Huế).
Nhà ở của cụ Phan được xây dựng trong khoảng từ năm 1926 - 1927. Ngôi nhà do Cụ tự thiết kế, cụ Võ Liêm Sơn - giáo viên trường Quốc Học đứng ra chủ trì xây dựng. Ngôi nhà có hình chữ “Công” nằm ngang, ba gian nhà lợp tranh, tượng trưng cho ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), vách đất tương đối cao và thoáng mát. Chính giữa nhà hình vuông, làm nơi diễn thuyết. Xung quanh có các chái chia phòng riêng biệt.
Lăng mộ được cụ Phan Bội Châu định vị sẵn từ năm 1934, nằm ngay phía trước ngôi nhà ở và chính giữa khu vườn. Sau khi cụ Phan qua đời (29/10/1940), với số tiền phúng điếu của đồng bào trong cả nước, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã đứng ra xây dựng ngôi mộ và nhà thờ.
Mộ có chiều dài 7m, ngang 5m, có 5 bậc tam cấp cao 0,8m, cách bình phong phía đầu mộ chừng 1m là tấm bia cao 1,8m, rộng 0,8m, trên mặt bia có bài “Tự Minh” bằng chữ Hán do cụ Phan viết năm 1934.
Do cụ Huỳnh Thúc Kháng đứng ra xây dựng năm 1941 cùng với khu lăng mộ. Nhà thờ được xây dựng phía bên phải nhà ở, nguyên trước đây là ngôi nhà rường 3 gian tường gạch, mái lợp ngói liệt. Nhà dài 7,5m, rộng 6m.
Từ đường được xây dựng từ tháng 4/1955 đến năm 1956, do cụ Tôn Thất Sa thiết kế, bác sĩ Thân Trọng Phước làm Trưởng ban xây dựng. Từ đường là một ngôi nhà ngói to lớn, đồ sộ, cao khoảng 8m, mái lợp ngói âm dương, mặt quay về phía lăng mộ cụ Phan Bội Châu. Mặt trước Từ đường có biển đề hàng chữ “Từ đường các liệt sĩ tiền bối và Phan Bội Châu tiên sinh”.
Hiện nay, ngôi Từ đường đã được Bảo tàng Lịch sử và cách mạng Thừa Thiên - Huế sử dụng một phần để tổ chức trưng bày về thân thế, sự nghiệp cụ Phan Bội Châu.
Tượng cụ Phan Bội Châu nằm bên phải khu vườn. Bức tượng do nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn thực hiện năm 1973 cùng với sự tham gia của Ban cán sự giáo chức và trí thức giải phóng (thuộc Thành ủy Huế), Trường Cao đẳng mỹ thuật, gia đình cụ Phan và các ban đại diện, cán sự sinh viên và học sinh Huế.
Tượng cụ Phan là loại tượng đầu có kích cỡ lớn nhất Việt Nam, cao 3m, nặng 4 tấn đồng. Tượng được đặt trên một bệ hình khối chữ nhật cao 2m bằng đá hộc.
Nghĩa trang mang tên cụ Phan Bội Châu là một khuôn viên rộng 4.000m2, tọa lạc trên đồi Quảng Tế (xã Thủy Xuân, thành phố Huế), gần đàn Nam Giao.
Khu đất nghĩa trang do cụ Phan Bội Châu mua cùng thời điểm với mảnh đất làm nhà ở dốc Bến Ngự. Năm 1934, Cụ dựng bia quy định rõ tiêu chuẩn những người được chôn cất tại đây. Ở nghĩa trang hiện nay có hơn 20 mộ phần của các nhà cách mạng yêu nước như: đồng chí Nguyễn Chí Diễu, nữ sĩ Đạm Phương, nhà văn Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn), nhà thơ Thanh Hải (Phạm Bá Ngoãn), liệt sĩ Lê Tự Nhiên,…
Cùng với những di tích chính, trong khu vực vườn nhà cụ Phan Bội Châu ở dốc Bến Ngự còn có một số di tích khác như: lăng mộ Tăng Bạt Hổ, lăng mộ ông bà Phan Nghi Đệ (con trai và con dâu của cụ Phan Bội Châu), nhà bia thờ Ấu Triệu Lê Thị Đàn, giếng nước…